Thứ Năm, 26 tháng 5, 2016

Ra mắt phần mềm giúp phát hiện chứng tự kỷ tại Việt Nam

Trung Tâm sáng kiến Sức khỏe và Dân số phối hợp với Mạng lưới người tự kỷ Việt Nam vừa tổ chức chương trình “Tương tác và khám phá - Ngày hội cùng trẻ tự kỷ”, thu hút hàng trăm trẻ nhỏ, trẻ tự kỷ và các bậc phụ huynh tham gia.

Dự án này là kết quả của sự hợp tác chặt chẽ giữa các nhà chuyên môn, cha mẹ trẻ có con nhỏ, cha mẹ trẻ tự kỷ, và các trẻ tự kỷ. Tham gia vào chương trình này, các cha mẹ cũng có cơ hội giao lưu và kết nối với mạng lưới Người tự kỷ Việt Nam. 

GS.TS Nguyễn Thị Hoàng Yến, giảng viên cao cấp Học viện Quản lý Giáo dục (Bộ Giáo dục và Đào tạo) cho rằng, đây là chương trình đi theo cách tiếp cận từ gia đình đến cộng đồng, giúp cho các bậc cha mẹ phát hiện sớm chứng tự kỷ ở trẻ nhỏ.

ra mat phan mem giup phat hien chung tu ky tai viet nam hinh 0
Các bậc phụ huynh được hướng dân truy cập phần mềm A365, phát hiện sớm chứng tự kỷ ở trẻ em

“Chương trình này có thể đánh giá, tự phát hiện con mình theo 5 dấu hiệu cờ đỏ, đưa ra các đánh giá, tự phát hiện con mình theo 5 dấu hiệu cờ đỏ đã được các tổ chức y tế khuyến cáo, giúp cho các bậc cha mẹ phát hiện sớm các dấu hiệu ban đầu về chứng tự kỷ ở con mình. 
Sau đó, họ sẽ có những bài giới thiệu để can thiệp sớm cho các con. Cha mẹ hoặc bất kỳ ai muốn tìm hiểu về những chương trình này đều có thể truy cập online để tiếp cận được. Tôi nghĩ rằng đây là cách làm rất đại chúng, rất phổ thông và rất tốt cho các bậc cha mẹ” - TS Hoàng Yến nói.

Hiện nay, tự kỷ đang là một trong những mối quan tâm lo ngại của toàn xã hội khi mà con số về trẻ tự kỷ ở Việt Nam đang ngày tăng lên theo tình trạng đáng báo động. Việc phát hiện sớm tự kỷ là một vấn đề cấp bách và quan trọng.

Trẻ tự kỷ nếu được phát hiện sớm, sẽ có nhiều cơ hội can thiệp hiệu quả và hòa nhập xã hội. Ở Việt Nam, tuy chưa có số liệu chính thức về tỷ lệ mắc hội chứng tự kỷ nhưng theo báo cáo của khoa Tâm bệnh, Bệnh viện Nhi Trung ương, số trẻ được chẩn tự kỷ trong năm 2010 tăng gấp 4 lần so với năm 2008 và ngày càng có xu hướng tăng lên trong những năm sau.

Hội y tế công cộng ước tính số người tự kỷ ở Việt Nam là 160.000 người. Mặc dù vậy, các chuyên gia cho rằng con số đó chỉ phản ánh một phần của tảng băng chìm do hiểu biết và khả năng phát hiện, đánh giá, can thiệp còn hạn chế.

Theo Kim Thanh - VOV

                                https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEiQ4ZMCkWKWqAJr1o7V4V8iMAvFJsOrgfe090b2NaUtwVWyu7ZkVtG0zKfKsEwMA0-iuaImf-77vHnz9Gj4FIdaJIUwSMOrHpTEoCuSX0XasxqBPuENbigozlzmyvp-xU2s1HOVpZ-4Iuc/s400/images.jpg

     DIỆN CHẨN SỐNG KHỎE       
           VĂN PHÒNG 0906143408   

Thứ Năm, 24 tháng 3, 2016

Người tự kỷ thường chết sớm

Trước đây nhiều công trình chỉ ra người tự kỷ có nguy cơ cao mắc các bệnh như trầm cảm, lo âu, động kinh, tiểu đường và tim mạch. Ngày nay, nghiên cứu của Viện Karolinska (Thụy Điển) phát hiện tự kỷ khiến cuộc sống con người bị rút ngắn.
nguoi-tu-ky-thuong-chet-som
Bệnh nhân tự kỷ đối mặt với tuổi thọ giảm sút. Ảnh: amillionlives.net.
Theo WebMD, các nhà khoa học đã so sánh hồ sơ sức khỏe của 27.122 bệnh nhân tự kỷ được chẩn đoán trong giai đoạn 1987-2009 với 2 triệu người khỏe mạnh. Kết quả, nhóm tác giả nhận thấy người tự kỷ có tuổi thọ bị giảm 16 năm xuống còn 54 tuổi. 
Nguy cơ tử vong sớm của bệnh nhân tự kỷ kèm khuyết tật học tập tăng 40 lần do các vấn đề thần kinh đi kèm, cuộc sống của họ kéo dài hơn 39 năm, ít hơn 30 năm so với người bình thường. Người tự kỷ không kèm khuyết tập học tập lại dễ chết vì tự tử với tỷ lệ cao hơn 9 lần những ai không mắc hội chứng. Họ thường ra đi ở tuổi 58.
"Mỗi cái chết đều là bi kịch cá nhân và sự phẫn nộ quốc gia. Trong nhiều năm trời, xã hội cùng hệ thống y tế đã bỏ qua tiếng nói của những gia đình tuyệt vọng vì mất người thân bị tự kỷ quá sớm", Jon Spiers, Giám đốc điều hành tổ chức nghiên cứu tự kỷ Autistica (Anh) nói.
Ông cho rằng, ngay ở những quốc gia phát triển như Anh, hiểu biết về tự kỷ vẫn còn hạn chế nên chính phủ các nước cần thực hiện thêm khảo sát, nghiên cứu nhằm giúp cộng đồng người tự kỷ được chăm sóc tốt hơn.

ĐIỀU TRỊ BỆNH CỘT SỐNG - THẦN KINH THEO PHƯƠNG PHÁP DIỆN CHẨN
                               

     DIỆN CHẨN SỐNG KHỎE       
           VĂN PHÒNG 0906143408   

Thứ Sáu, 26 tháng 2, 2016

Những suy nghĩ sai lầm về hội chứng tự kỷ cần thay đổi ngay

Trong những năm gần đây, số trẻ em sinh ra mắc phải hội chứng tự kỷ có xu hướng tăng lên. Nhưng rất nhiều người vẫn còn có cái nhìn, suy nghĩ sai lầm về hội chứng này. Chính sự hiểu lầm này đã dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng cho trẻ cũng như gây áp lực cho gia đình có trẻ tự kỷ.

1. Nguyên nhân của tự kỷ là do thiếu sự quan tâm, chăm sóc

Hiện nay, nhiều người vẫn nghĩ rằng trẻ bị tự kỷ là do thiếu sự quan tâm chăm sóc, sự yêu thương đùm bọc của bố mẹ, anh chị em trong gia đình. Nhưng trên thực tế, đây là một hội chứng do tổ chức não bộ thiếu kết nối với nhau vì vậy não bộ của trẻ tự kỷ không có khả năng tích hợp thông tin gây cản trở đến việc giao tiếp. Đây là một chứng rối loạn bẩm sinh chứ không phải do ăn uống hay có tính di truyền. 

Những suy nghĩ sai lầm cần thay đổi về hội chứng tự kỷ

2. Xác định tự kỷ bằng việc kiểm tra vân tay, xem nốt ruồi...

Trong thời gian qua, nhiều người rộ lên tin đồn có thể xác định tự kỷ qua việc kiểm tra vân tay, xem nốt ruồi, xét nghiệm ADN… nhưng tất cả đều không mang lại kết quả chính xác. Trên thực tế, để xác định được trẻ có mắc phải hội chứng tự kỷ hay không, mức độ thế nào thì hiện tại vẫn dựa vào sự tương tác của trẻ với môi trường xã hội. 

Và để xác định được thì cần gặp những người có kinh nghiệm lâu năm, các chuyên gia trong nghành để xác định đúng và đưa ra hướng can thiệp tốt nhất cho trẻ. 

3. Biểu hiện của tự kỷ là ít nói, không thích tiếp xúc với mọi người

Đại đa số mọi người khi được hỏi đến về hội chứng tự kỷ đều cho rằng: những người tự kỷ thường ít nói, không biết nói, không thích tiếp xúc với mọi người hay là những người điên khùng, thần kinh… những hiểu lầm “chết người” này khiến trẻ tự kỷ và phụ huynh gặp không ít khó khăn về việc tạo ra môi trường cho trẻ hòa nhập với xã hội.

Những người có hội chứng tự kỷ tuy gặp khó khăn trong việc giao tiếp, tiếp nhận thông tin và hành vi nhưng họ vẫn có thể tiếp nhận nếu người hướng dẫn biết cách truyền tải thông tin. 
Những suy nghĩ sai lầm về hội chứng tự kỷ cần thay đổi ngay
Ở trẻ tự kỷ, mỗi em sẽ có những biểu hiện khác nhau nhưng điển hình là: không nhìn vào mắt người giao tiếp, không quan tâm tới những vấn đề xung quanh, làm việc một cách rập khuôn, nhại lại câu nói của người đang giao tiếp với mình, khó chịu với âm thanh, gặp khó khăn trong việc nhai nhuốt thức ăn...

4. Chữa tự kỷ bằng việc uống thuốc, cúng bái, châm cứu

Do suy nghĩ sai lầm về nguyên nhân cũng như biểu hiện, đôi khi có cả sự mê tín dị đoan về hội chứng tự kỷ. Các bậc phụ huynh đã tìm đến nhiều phương pháp chữa trị như uống thuốc, cúng bái, châm cứu, ăn gan gà có màu vàng, thả trẻ vào môi trường bình thường để trẻ tự hòa nhập…


 Trên thực tế các phương pháp này không mang lại hiệu quả đối với trẻ tự kỷ. Đến nay, y học vẫn chưa nghiên cứu ra phương pháp chữa trị tự kỷ.

Và hiện nay, tự kỷ chỉ dừng lại ở các chương trình can thiệp như: ADI (Can thiệp Phát triển Quan hệ), AAC (Giao tiếp Tăng cường và Thay thế), PECS (phương pháp hỗ trợ bằng hình ảnh), ABA (phân tích hành vi ứng dụng)…

Ở mỗi chương trình lại mang lại cho trẻ những lợi ích khác nhau. Vì vậy, để trẻ có được sự tiến bộ thì người hướng dẫn cần hiểu tính cách của trẻ và áp dụng các phương pháp linh hoạt. 

5.  Chậm nói không phải là tự kỷ

Nhiều bậc cha mẹ khi thấy con mình chậm nói so với bạn bè cùng lứa tuổi thì nghĩ ngay đến việc con bị tự kỷ và đưa đến các trung tâm tự kỷ để nhờ can thiệp. Ở nhiều trường hợp, trẻ tự kỷ bị chậm nói nhưng bên cạnh đó là những biểu hiện khác lạ nữa. Còn ở những trẻ có biểu hiện bình thường như các trẻ khác và chỉ chậm nói thì các bậc phụ huynh không nên quá lo lắng.

Hãy kiên trì dạy trẻ nói bằng cách giảm bớt thời gian cho bé tiếp xúc với tivi, điện thoại, máy tính... Đồng thời, phụ huynh hãy tăng cường thời gian trò chuyện với con để bé luyện nói và có phản xạ về lời nói nhanh chóng hơn. 


Thứ Ba, 9 tháng 2, 2016

Bệnh tự kỷ có thể chữa khỏi

Tự kỷ là một dạng rối loạn phát triển, xuất hiện ngay từ những năm đầu đời. Người mắc chứng tự kỷ không có giao tiếp, tương tác xã hội với những người khác.




Cha mẹ thường xuyên gần gũi, quan tâm con cái sẽ thúc đẩy quá trình chữa bệnh tự kỷ nhanh hơn. (Ảnh: TL)Cha mẹ thường xuyên gần gũi, quan tâm con cái sẽ thúc đẩy quá trình chữa bệnh tự kỷ nhanh hơn. (Ảnh: TL)
Bệnh này biểu hiện phổ biến ở các bé trai với tỷ lệ bé trai mắc bệnh cao gấp ba lần so với bé gái. Số liệu của Tổ chức Y tế Thế giới cho thấy, năm 2013, cứ 160 trẻ em trên thế giới thì có 1 trẻ bị tự kỷ. Ở Mỹ, theo một ước tính năm 2010, cứ 68 trẻ thì có 1 trẻ bị tự kỷ.
Thế nhưng, một nghiên cứu mới đây của các nhà khoa học Mỹ đã phát hiện ra những tế bào đặc biệt Th17 và IL-17 có khả năng ngăn chặn chứng tự kỷ phát triển trong não trẻ sơ sinh, thậm chí có thể chữa khỏi căn bệnh này. Nếu được chứng minh là có hiệu quả, phương pháp mới này sẽ thay đổi toàn bộ cuộc sống của hàng triệu người mắc chứng tự kỷ trên khắp thế giới.
Cho tới gần đây, chưa có phương pháp điều trị tự kỷ nào được chứng minh là thành công, mặc dù mối quan hệ giữa việc người mẹ bị nhiễm virus khi đang mang thai và nguy cơ đứa trẻ sinh ra với chứng tự kỷ đã được nêu ra trong các nghiên cứu trước đó.
Để kiểm nghiệm vai trò của Th17 và IL-17, các nhà khoa học đã kích hoạt hoạt động của chúng bằng cách mô phỏng sự tấn công của vi sinh vật với chuột thí nghiệm đang mang thai. Sau đó, họ theo dõi những con chuột non và đánh giá liệu chúng có các biểu hiện hành vi bất thường hay không.
Theo đó, những con chuột được tiếp xúc với lượng IL-17 cao hơn có những biểu hiện tự kỷ khi chúng sinh ra. Ví dụ, chúng không phân biệt được chuột thật và chuột đồ chơi, và tương tác với cả hai như nhau. Trong khi đó, những con chuột khỏe mạnh dành nhiều thời gian để giao thiệp với những con chuột khác hơn.
Mặc dù TS Littman và cộng sự đã xin cấp bằng cho phương pháp chặn IL-17, thế nhưng sẽ phải mất nhiều năm nữa kết quả nghiên cứu của họ mới trở thành cách điều trị chứng tự kỷ được áp dụng rộng rãi trên người.




Thứ Ba, 19 tháng 1, 2016

Hội chứng rối loạn tăng động - những khám phá mới

ADHD (Attention Deficit Hyperactivity Disorder) là rối loạn tăng động giảm chú ý, biểu hiện thường thấy là bốc đồng, thiếu chú ý và hiếu động. Hay gặp ở nhóm 8 - 11 tuổi, bé trai mắc bệnh nhiều hơn bé gái với tỉ lệ là 3/1.
1. Những yếu tố làm tăng nguy cơ mắc bệnh ADHD
Di truyền: nghiên cứu đã chỉ ra rằng nếu một hoặc cả hai cha mẹ đều chẩn đoán bị ADHD, rủi ro trẻ mắc bệnh rất cao, nhất là có người cha mắc bệnh. Theo thống kê, cứ 3 người con của ông bố mắc ADHD thì có 1 mắc hội chứng này.
Giới tính: mặc dù nguyên nhân của hiện tượng trên vẫn chưa rõ ràng, nhưng tỉ lệ bé trai mắc bệnh cao hơn bé gái theo tỉ lệ 3/1.
Độc tố môi trường: đặc biệt là các loại hóa chất độc hại như phơi nhiễm thủy ngân, chì, nhôm và thuốc trừ sâu. Theo Cơ quan Bảo vệ Môi trường Mỹ, cứ 6 phụ nữ thì có 1 sinh con mắc ADHD.
Tật nghiến răng khi ngủ (Bruxism) hoặc răng mài, là dấu hiệu cho thấy người trong cuộc dễ bị ADHD, đây là người mang cá tính loại A (tích cực/tham vọng).
Mang thai và sinh đẻ: rắc rối trong quá trình mang thai hoặc sinh con là một yếu được xem là liên quan đến ADHD.
Lạm dụng truyền hình: thay đổi hình ảnh quá nhanh, tính kích thích phim ảnh, bóp méo sự hiểu biết về thế giới của trẻ, làm thay đổi quá trình hoạt động hệ thần kinh khi trẻ đang phát triển.
2. Một số bệnh dễ nhầm với ADHD
Bệnh tuyến giáp: đặc biệt là cường giáp, làm cho trẻ em dễ bị thay đổi tâm tính, khả năng tập trung và run tay, và dễ nhầm với ADHD.
Ngưng thở khi ngủ: đây là chứng thiếu ngủ, rối loại giấc ngủ có thể làm tăng ADHD.
Hội chứng chân cẳng không yên (RLS): căn bệnh cũng dễ nhầm với ADHD.
Bệnh tâm thần, như: trầm cảm, lo âu và rối loạn lưỡng cực đều có các dấu hiệu như ADHD.
Chấn thương não: nguyên thủy, ADHD thường được cho là rối loạn tổn thương não, nhưng khoa học phát hiện thấy đây không phải nguyên nhân gây bệnh ADHD. Ngoài ra, nhiễm độc chì và bại não, cả hai đều chia sẻ các triệu chứng giống ADHD.
Khuyết tật học hành: mặc dù ADHD cũng có thể làm tăng khuyết tật học hành, nhưng không phải lúc nào cũng vậy. Ví dụ, chứng khó đọc, thường được chẩn đoán nhầm là ADHD.
Các vấn đề thính lực: bệnh thính lực thường bị nhầm lẫn với ADHD vì con người không nghe được rõ thông tin mà chỉ đoán mò, nhất là ở trẻ nhỏ, dẫn đến tình trạng học hành suy giảm.
Nhóm trẻ năng khiếu: trẻ năng khiếu thường có cá tính “cả thèm chóng chán” giống trẻ ADHD.
Dị ứng thực phẩm, hóa chất: dị ứng có thể tạo ra các triệu chứng tương tự như ADHD, nhất là ADHD xảy ra cùng dị ứng. Đôi khi người ta chỉ trị dị ứng mà lại bỏ qua ADHD.
3. Cách giảm bớt triệu chứng ADHD mà không dùng đến thuốc
Liệu pháp hành vi: hành vi trị liệu là việc xác định hành vi tiêu cực và tìm cách thay đổi chúng. Mục tiêu là thay đổi suy nghĩ, đưa ra chiến lược đối phó. Bao gồm, giúp đỡ tổ chức công việc ở nhà và bài tập về nhà, xử lý những cảm xúc mạnh mẽ thông qua việc tự giám sát và tự khen ngợi của trẻ.
Tâm lý: liệu pháp tâm lý giúp cá nhân có bệnh ADHD học cách yêu chính mình và tìm hiểu các dạng hành động tiêu cực, giúp người trong cuộc đối phó với các hành vi bất lợi này.
Đào tạo kỹ năng xã hội: liệu pháp này giúp người bệnh nhận thức người khác chính xác hơn. Mục đích, giúp các cá nhân mắc bệnh ADHD cảm thấy thoải mái hơn khi iếp xúc cộng đồng.
Các nhóm hỗ trợ: liệu pháp này giúp những người mắc bệnh tạo ra cảm giác nhận thức, chấp nhận tích cực và chia sẻ những nỗi thất vọng mà họ thường gặp mà không sợ bị phán xét.
Đào tạo kỹ năng làm cha mẹ: trẻ mắc bệnh ADHD sẽ phát triển tốt hơn nếu có cha mẹ hiểu biết, thông cảm, đặc biệt là thỏa mãn nhu cầu cho trẻ, kể cả cách xử lý hành vi xấu lẫn ca ngợi hành vi tích cực. Nó cũng có thể giúp cha mẹ hiểu được những gì con cái cần để dẫn đến thành công, bao gồm các quy tắc, thói quen phù hợp và cách tổ chức cuộc sống riêng cho trẻ mắc bệnh.
Thay đổi chế độ ăn uống: khoa học chứng minh, protein đặc biệt quan trọng cho nhóm mắc bệnh ADHD, ví dụ protein cho bữa sáng và bữa trưa bằng cách bổ sung sữa cho trẻ.
Bổ sung thảo dược: qua nghiên cứu cho thấy một số dược thảo bổ sung cho chế độ ăn uống có tác dụng giảm triệu chứng bệnh ADHD như Skullcap (Scutellaria lateriflora) hay cỏ Long ba có tác dụng tăng cường sức khỏe dây thần kinh, cân bằng tâm tính, thúc đẩy sự bình tĩnh. Cúc La Mã (German Chamomile) có tác dụng làm giảm căng thẳng thần kinh và sự thất vọng. Cây Rambus Cola có tác dụng giúp cải thiện lưu thông lên não tăng trí nhớ và minh mẫn, ngăn ngừa sự thay đổi tâm tính đột ngột. Hoặc dùng cây bạch quả (Gingko Biloba) giúp tăng cường chức năng bộ nhớ và sự tập trung.
Liệu pháp phản hồi sinh học thần kinh (Neurofeedback): đây là phương pháp điều trị mới cho hội chứng ADHD, Neurofeedback làm việc với sóng não, đặc biệt là những người không chú ý và thiếu tập trung. Trong Neurofeedback, bác sĩ sẽ gắn cho bệnh nhân với các điện cực và tạo ra một bản đồ não của bệnh nhân, sau đó tiến hành kiểm tra và ghi lại kết quả. Trong mỗi cua thử nghiệm, trẻ được dạy để kiểm soát sóng não thông qua việc sử dụng các trò chơi máy tính theo mô hình thiết kế đặc biệt. Mặc dù vẫn còn mới, nhưng triển vọng của Neurofeedback trong điều trị ADHD là rất khả thi. Sau một năm điều trị bằng Neurofeedback, một số bệnh nhân đã giảm liều lượng thuốc trị ADHD tới 50%.


NHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨ
NHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨ
Gọi cho chúng tôi 0902233317